LỤC THẬP GIÁP TÝ NẠP ÂM
Thợ vẽ AutoCad - tháng 12 09, 2025 -
tu-vi-dau-so
Lục thập Giáp Tý là hệ thống can chi kết hợp mười Thiên can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý) với mười hai Địa chi (Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi), tạo thành 60 tổ hợp – chu kỳ truyền thống để ghi năm.
“Nạp” nghĩa là “nạp vào, đưa vào, thu vào”.
“Âm” là âm luật – chỉ năm âm của nhạc xưa: Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ.
Người đầu tiên “khởi lập” việc đem Lục thập Giáp Tý nạp vào ngũ âm, nay đã không thể khảo chứng.
Đã có ngũ âm → ắt liên hệ đến Luật lữ;
Đã có ngũ âm → ắt gắn với Ngũ hành;
Có ngũ hành → tất có Âm dương.
I. Nhận định của các học giả đời Tống
1. Thẩm Quát – Bắc Tống
Ông cho rằng Nạp Âm Giáp Tý bắt nguồn từ quan hệ tương sinh giữa khí – âm luật,và phương pháp nạp giáp của Kinh Phòng (“Giáng ngũ hành, ban lục vị”).
Trong Mộng Khê Bút Đàm – Nhạc Luật I, Thẩm Quát viết: “Lục thập Giáp Tý có Nạp Âm, xưa nay ít ai rõ được nghĩa.
Do ‘lục thập luật xoay vòng làm cung’.
Một luật hàm 5 âm, 12 luật hàm 60 âm.”
“Khí bắt đầu từ Đông phương đi sang phải… âm bắt đầu từ Tây phương đi sang trái… âm dương giao thoa sinh biến hóa.”
“Nạp âm cùng phương pháp Nạp Giáp của Kinh Dịch là một: Càn nạp Giáp, Khôn nạp Quý; bắt đầu ở Càn, kết ở Khôn.”
“Nạp âm: đồng loại lấy nhau làm vợ, cách tám sinh con – lời trong Hán chí.”
“Năm hành ưu tiên ‘trọng’ rồi đến ‘mạnh’, mạnh rồi đến ‘mạt’ — theo quy tắc Tam nguyên của Độn Giáp.”
→ Thẩm Quát luận rằng Nạp Âm là sự kết hợp Luật Lữ – Âm Luật – Ngũ Hành trong vòng 60 âm.
2. Cao Tự Tôn – Nam Tống
Ông cũng cho rằng Nạp Âm xuất phát từ Lục thập luật – Hệ thống xoay cung.
Trong Vĩ Lược – Nạp Âm viết:
“Tý là khởi dương, Ngọ là khởi âm.
Dùng Giáp gia Tý tính đến Ngọ, Giáp gia Sửu đến Mùi… Ngọ được Canh, Mùi được Tân → gọi là âm tìm âm.
Rồi Giáp gia Ngọ đến Tý, Giáp gia Mùi đến Sửu… cũng được Canh – Tân → gọi là âm phối dương.”
“Đó là tính theo số của Thiên can, không tính số Địa chi.”
“Nguồn gốc từ hệ thống 60 cung trong 12 luật — vì mỗi luật có 5 âm, 12 luật thành 60 âm.”
→ Tức ông xem Nạp Âm là âm luật hóa của hệ Giáp Tý.
II. Quan điểm đời Nguyên: Nạp âm dựa trên Hà Đồ số
Đào Tông Nghi – cuối Nguyên cho rằng Nạp Âm không tách khỏi Hà Đồ số.
Trong Toại Quế Đường Hạ Lục viết: “Sáu mươi Giáp Tý nạp âm bằng ngũ âm của kim mộc thủy hoả thổ.”
“Trong ngũ hành, chỉ kim – mộc có ‘tự nhiên chi âm’; thủy – hoả – thổ phải ‘mượn’ âm của hành khác mới thành.”
Ông dẫn Hà Đồ số:
1–6: Thuỷ
2–7: Hoả
3–8: Mộc
4–9: Kim
5–10: Thổ
Và minh chứng từng cặp can–chi (Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần…) đều quy ra ngũ hành tương ứng theo quy luật số.
→ Tức Nạp Âm = Hà Đồ Ngũ Âm + quy nạp can–chi.
III. Quan điểm đời Thanh: Nạp âm thuộc hệ “Thái Huyền” của Dương Hùng
Lý Quang Địa – Thanh khảo chứng rằng:
Nạp Âm chịu ảnh hưởng của Dương Hùng – “Thái Huyền”
Đồng thời cũng dựa trên Hà Đồ.
Trong Ngự Định Tinh Lịch Khảo Nguyên viết:
“Hai can – hai chi cộng số, số 4–9 là kim, 1–6 là hoả, 3–8 là mộc, 5–10 là thủy, 2–7 là thổ.”
Tuy nhiên ông chỉnh lại bằng phép Đại Diễn số 49:
Cộng số can–chi → trừ cho 49 → lấy số dư → quy vào ngũ hành.
Sau đó lấy hành sinh ra hành đó làm Nạp Âm.
→ Ông xem Nạp Âm là phép tính số học của “Thái Huyền”, Hà Đồ và Đại Diễn Dịch Số.
IV. Tổng hợp: Nạp âm không thể tách khỏi “Âm luật – Hà Đồ – Ngũ Hành – Can Chi – Âm Dương”
Dù xuất phát từ hệ:
-Luật lữ xoay cung
-Hà Đồ sinh số
-Thái Huyền số của Dương Hùng
-Nạp Giáp Dịch học
-Quy nạp ngũ âm
→ Tất cả đều xoay quanh Âm dương – Ngũ hành – Số học – Can Chi – Luật lữ.
V. Hình thành các tên Nạp Âm 60 Hoa Giáp
Giáp Tý Ất Sửu – Hải trung kim
Bính Dần Đinh Mão – Lô trung hoả
Mậu Thìn Kỷ Tị – Đại lâm mộc
Canh Ngọ Tân Mùi – Lộ bàng thổ
Nhâm Thân Quý Dậu – Kiếm phong kim
Giáp Tuất Ất Hợi – Sơn đầu hoả
Bính Tý Đinh Sửu – Giản hạ thuỷ
Mậu Dần Kỷ Mão – Thành đầu thổ
Canh Thìn Tân Tị – Bạch lạp kim
Nhâm Ngọ Quý Mùi – Dương liễu mộc
Giáp Thân Ất Dậu – Tỉnh tuyền thuỷ
Bính Tuất Đinh Hợi – Ốc thượng thổ
Mậu Tý Kỷ Sửu – Sấm sét hoả
Canh Dần Tân Mão – Tùng bá mộc
Nhâm Thìn Quý Tị – Trường lưu thuỷ
Giáp Ngọ Ất Mùi – Sa trung kim
Bính Thân Đinh Dậu – Sơn hạ hoả
Mậu Tuất Kỷ Hợi – Bình địa thuỷ
Canh Tý Tân Sửu – Bích thượng thổ
Nhâm Dần Quý Mão – Kim bạc kim
Giáp Thìn Ất Tị – Phúc đăng hoả
Bính Ngọ Đinh Mùi – Thiên hà thuỷ
Mậu Thân Kỷ Dậu – Đại dịch thổ
Canh Tuất Tân Hợi – Sai xuyên kim
Nhâm Tý Quý Sửu – Tang trác mộc
Giáp Dần Ất Mão – Đại khê thuỷ
Bính Thìn Đinh Tị – Sa trung thổ
Mậu Ngọ Kỷ Mùi – Thiên thượng hoả
Canh Thân Tân Dậu – Thạch lựu mộc
Nhâm Tuất Quý Hợi – Đại hải thuỷ
→ Đây là 60 Nạp Âm truyền thống dùng đến ngày nay.
Ghi chú:
1. Lục thập Giáp Tý không chỉ để ghi năm, mà còn để ghi tháng, ngày, giờ.
2. “Lục thập luật xoay cung” nghĩa là: trong 12 luật, mỗi luật có thể làm cung, tạo ra 12 “quân”, mỗi quân có 5 điều chỉnh → thành 60 điều.
3. Tư liệu về “xoay cung pháp” du nhập từ nhạc luật đời Tùy – Đường do Tổ Hiếu Tôn phát triển trên cơ sở pháp của Mao Sảng.
Hình kèm: Đồ giải “Nạp Âm Ngũ Hành phân Tam Nguyên – ứng luật lữ – cách tám mà sinh”.

